Tăng cường Tiếng Việt cho học sinh lớp Một trường Tiểu học Nguyễn Du
Lượt xem: Lượt tải:
Thông tin | Nội dung |
---|---|
Tên tài nguyên | Tăng cường Tiếng Việt cho học sinh lớp Một trường Tiểu học Nguyễn Du |
Loại tài nguyên | Sáng kiến kinh nghiệm, |
Tên tập tin | |
Loại tập tin | |
Dung lượng | -1 |
Ngày chia sẻ | 16/03/2017 |
Lượt xem | 311 |
Lượt tải | 1 |
Xem tài liệu | Xem Online |
Tải về |
Khi bước vào ngưỡng cửa Tiểu học của mỗi học sinh, các em sẽ không bao giờ quên được những kí ức vừa bồn chồn lo lắng xen lẫn những khát khao đi học để được nói cười cùng với nhiều bạn mới quen, được học với cô giáo mới.
I.1. Lý do lựa chọn đề tài
Đối với học sinh, Tiếng Việt có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình nhận thức và sự phát triển của bản thân các em. Hầu hết các môn học đều cần đọc hiểu. Nếu không thông thạo Tiếng Việt, quá trình nắm bắt tri thức của các em sẽ gặp trở ngại lớn, bởi các em không có đủ vốn từ vựng cần thiết để có thể hiểu được nội dung các môn học.Tác dụng của việc học Tiếng việt là đem đến cho bản thân người học một thứ công cụ sắc bén để chiếm lĩnh tất cả những tri thức của nhân loại, nói sát với thực tế là nắm bắt được Tiếng Việt ngay vào đầu cấp thì trẻ lớp Một sẽ rất nhẹ nhàng trong việc học tất cả các môn khác. Còn những trẻ ít được tiếp xúc hoặc không được tiếp xúc với Tiếng Việt bao giờ thì đây quả là một vấn đề rất khó khăn cho cả thầy và trò.Lý do này chính là nguyên nhân làm cho trẻ tự ti, nhút nhát, ngại đến lớp, dẫn đến làm giảm khả năng tiếp thu bài, chất lượng học tập kém, giảm sút trầm trọng.
Thực tế hiện nay ở trường tôi có 100% học sinh dân tộc ( Ê đê,), tôi nhận thấy rằng: Hầu hết học sinh luôn có thói quen nói tiếng mẹ đẻ và phát triển khả năng tư duy của các em cũng bằng chính ngôn ngữ đó; điều kiện sử dụng giao tiếp bằng Tiếng Việt trong cuộc sống hàng ngày còn hạn chế; bản thân các em và phụ huynh chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc nắm vững Tiếng Việt. Với kinh nghiệm nhiều năm giảng dạy, và nghiên cứu tôi thực hiện đề tài: “Tăng cường tiếng Việt cho học sinh lớp Một trường tiểu học Nguyễn Du ” ( lớp tôi đã trực tiếp chủ nhiệm năm 2014- 2015), với một mong muốn làm sao để đóng góp một phần nào đó cho nền giáo dục huyện nhà cũng như phát triển thế hệ học sinh tương lai của trường Tiểu học Nguyễn Du.
I.2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
I.2.1. Mục tiêu của việc nghiên cứu
Quá trình nghiên cứu đề tài nhằm hướng tới những mục tiêu để có thể thực hiện những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục học sinh của trường Tiểu học Nguyễn Du, trong đó chủ yếu đề cập đến những giải pháp tăng cường tiếng Việt cho học sinh lớp Một.
I.2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thực hiện thống kê, tổng hợp những số liệu về chất lượng chuyên môn giảng dạy của lớp 1A năm học 2014 – 2015, những khó khăn, thuận lợi và trình độ Tiếng Việt của học sinh lớp 1A của trường Tiểu học Nguyễn Du.
Tìm được biện pháp, giải pháp để khắc phục các nhược điểm và đề xuất một số giải pháp tăng cường, nâng cao tiếng Việt cho học sinh lớp 1A trong quá trình dạy học trên lớp và những hoạt động ngoài giờ lên lớp nhằm nâng cao khả năng tiếp thu Tiếng Việt cho học sinh.
I.3. Đối tượng nghiên cứu
I.3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu những giải pháp tăng cường Tiếng Việt cho học sinh mà giáo viên đã thực hiện trong quá trình giảng dạy, những hoạt động ngoài giờ lên lớp có liên quan đến việc “Tăng cường tiếng Việt cho học sinh lớp Một.”
I.3.2. Khách thể nghiên cứu
Học sinh lớp 1A tại trường tiểu học Nguyễn Du; Chất lượng, hiệu quả đào tạo trong năm học 2014 – 2015; những thuận lợi- khó khăn, điều kiện dạy và học của nhà trường.
I.4. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài giới hạn nghiên cứu các phương pháp, biện pháp dạy và học, những kết quả trong việc đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá dạy học đối với học sinh lớp 1A, quá trình triển khai tăng cường chất lượng dạy và học bộ môn Tiếng Việt lớp 1A của trường Tiểu học Nguyễn Du.
I.5. Phương pháp nghiên cứu
– Tiến hành thống kê số liệu về khả năng học Tiếng Việt của học sinh lớp 1A tại trường Tiểu học Nguyễn Du.
– Phân tích, so sánh chất lượng, hiệu quả đào tạo trước khi chưa thực hiện giải pháp và sau khi đã áp dụng các giải pháp.
– Đưa ra nhiều phương pháp đa dạng khác nhau, nhưng bắt đầu bằng việc “ Nghe- Quan sát,- Làm theo”( Phương pháp học ngôn ngữ qua hành động.)
– Phỏng vấn một số giáo viên trực tiếp dạy và học sinh về những thuận lợi, khó khăn; hiệu quả đạt được, những hạn chế khi thực hiện các giải pháp hỗ trợ, tăng cường Tiếng Việt.
I.6. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu
Toàn bộ đề tài này là đúc kết những kinh nghiệm trong quá trình giảng dạy lớp 1A trường Tiểu học Nguyễn Du nhằm đưa những giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục học sinh lớp Một trong đó chủ yếu đề cập đến những giải pháp tăng cường Tiếng Việt cho học sinh.
Đề tài hoàn toàn thể hiện và đảm bảo được các yếu tố truyền thống và yếu tố sáng tạo được áp dụng, phù hợp với thực tiễn của địa bàn trường tôi đang giảng dạy. Kết hợp được những phương pháp giảng dạy mới lẫn cả tinh lọc một số nét tinh tế của phương pháp dạy truyền thống. Bám sát tình hình thực tiễn của nhà trường và địa phương nhằm đem lại hiệu quả cao nhất khi áp dụng các giải pháp.
II.PhẦn nỘi dung
II.1. Cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu
II.1.1.Cơ sở lí luận khoa học
Cùng với lịch sử dân tộc Tiếng Việt đã trải qua hàng ngàn năm tồn tại và phát triển. Nếu không có nó, làm sao có được thứ tài sản vô giá như Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, bài thơ hùng hồn Nam Quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt cùng với hàng trăm truyện nôm khuyết danh, thơ Hồ Xuân Hương…và cả Truyện Kiều…
“ Họ đã gởi hết cả vào Tiếng Việt. Họ yêu vô cùng thứ tiếng trong mấy mươi thế kỉ đã chia sẻ vui buồn với cha ông. Họ dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt, họ nghĩ, là tấm lụa đã hứng vong hồn những thế hệ đã qua…”
( Hoài Thanh – Hoài Chân – “ Thi nhân Việt Nam”)
Tiếng Việt có vị trí hàng đầu ở trường phổ thông, đặc biệt là ở cấp Tiểu học và Trung học cơ sở. Sự khẳng định này dựa trên thực tế giáo dục phổ thông và vai trò của Tiếng Việt trong nhà trường.Tiếng Việt vừa là một môn học độc lập, lại vừa là một thứ công cụ hỗ trợ cho khả năng diễn đạt và tư duy tất cả các môn học khác, Tiếng Việt thể hiện tính liên quan dạy- học với các môn học khác.
Học tốt môn Tiếng Việt trở thành điều kiện thuận lợi cho việc học các môn học khác. Do đó, ngay từ khi bước vào ngưỡng cửa của lớp Một, việc hình thành nên một tư duy ngôn ngữ cho các em là hết sức cần thiết. Tiếng Việt là tiền đề cho quá trình học tập của các em sau này.
II.1.2.Cơ sở lí luận thực tiễn
Trường Tiểu học Nguyễn Du hằng năm tiếp nhận một lượng học sinh bước vào Tiểu học với 100% là học sinh dân tộc tại chỗ,có một vài em học sinh hay ở nhà hoặc theo bố mẹ lên rẫy xa ít ra lớp học mầm non.
Nằm trong địa bàn còn nhiều khó khăn về cơ sở vật chất, sự quan tâm của phụ huynh học sinh còn chưa sâu sắc, hầu hết các em bước vào lớp Một rất bỡ ngỡ trong quá trình tiếp thu với bộ môn Tiếng Việt. Đứng trước những khó khăn đó, thầy và trò trường Tiểu học Nguyễn Du cần phải quyết tâm nỗ lực trong việc nâng cao chất lượng giáo dục nói chung, chất lượng dạy và học Tiếng Việt nói riêng.
Sự nỗ lực không ngừng của thầy và trò đã được đáp lại bằng những kết quả khả quan và giúp cho bản thân tôi đúc rút được những kinh nghiệm quí báu trong sự nghiệp ươm mầm non cho huyện nhà và cho đất nước.
II.2. Thực trạng
a.Thuận lợi:
-Đồ dùng dạy học đầy đủ, tranh ảnh đẹp được tổ giáo viên bổ sung thường xuyên kích thích học sinh nói, ham học, ham tìm hiểu.
– Tất cả chủ đề luyện nói gần gũi với thực tế cuộc sống của học sinh (Chủ đề về bản thân bé, bạn bè xung quanh, ba mẹ, ông bà, những sinh hoạt thông thường của các em: phim hoạt hình, đọc truyện, nhà trẻ, chuối, bưởi, vú sữa …).
– Ban Giám Hiệu luôn tạo điều kiện cho giáo viên được tham gia tập huấn, dự giờ thường xuyên, từ đó giúp giáo viên nắm được các mục tiêu cần thiết trong phần luyện nói cho học sinh.
– Chúng tôi đã sử dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy đưa một số hình ảnh đẹp, sinh động vào minh họa cho tiết học nên các em hứng thú học tập đã nâng cao được hiệu quả.
b.Khó khăn
-Trường tiểu học Nguyễn Du là một trường nằm ở cánh Đông của huyện CưMgar, trên địa bàn trường số hộ dân đa số là dân tộc Ê đê, chủ yếu làm nông.
– Hầu hết trình độ dân trí còn thấp, cuộc sống của người dân còn gặp rất nhiều khó khăn, do đó quá trình quan tâm của một số phụ huynh dành cho việc học của con cái còn nhiều hạn chế.
– Học sinh dân tộc thiểu số chiếm 100%
Bên cạnh những khó khăn về đặc thù thì còn tồn tại những khó khăn ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng đầu vào của học sinh lớp Một như:
Có một số học sinh lớp Một tuy đã qua lớp mầm non nhưng hay nghỉ học nên các kĩ năng còn rất ít.
Đa số các em chưa quen với tiếp thu ngôn ngữ phổ thông, hầu hết các lỗi phát âm là do ảnh hưởng của ngôn ngữ mẹ đẻ.
II.2.2.Thành công, hạn chế
a.Thành công:
+ Vốn Tiếng Việt của các em được cải thiện rõ rệt, các em có ý thức học tập hơn.
+ Nhiều em trong lớp do tôi giảng dạy không còn tự ti, rụt rè nữa mà đã tham gia học sôi nổi hơn.
+ Số đông phụ huynh, cha mẹ học sinh quan tâm hơn tới việc học của con cái, đã biết thường xuyên sử dụng ngôn ngữ phổ thông tại gia đình để giúp các em từng bước hoàn thiện ngôn ngữ Tiếng Việt của mình.
b.Hạn chế:
+ Số gia đình có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn chưa thực sự quan tâm đến con em có khoảng 10%, nên các em còn gặp nhiều trở ngại trong quá trình học Tiếng Việt và hòa nhập với bạn bè.Giữa cô và trò còn có sự bất đồng ngôn ngữ.
II.2.3.Mặt mạnh, mặt yếu
a.Mặt mạnh:
+ Sự nhiệt huyết và tinh thần trách nhiệm cộng cả kinh nghiệm giảng dạy chúng tôi luôn góp phần và đưa ra những giải pháp khả thi cho giảng dạy.
+ Hướng chỉ đạo sát sao của nhà trường giúp chúng tôi luôn hoàn thành tốt công việc.
+ Khối chuyên môn luôn đặc biệt quan tâm việc Tăng cường Tiếng Việt cho các em.
+ Tinh thần thi đua của học sinh và sự phối hợp nhịp nhàng của phụ huynh cũng góp phần không nhỏ trong quá trình thực hiện các giải pháp.
b.Mặt yếu:
+ Nhiều em còn nhiều bỡ ngỡ, tư duy chưa thực sự phát triển.
+ Tuy đã thành công bước đầu trong việc tăng cường khả năng Tiếng Việt cho các em, song chưa phát huy được tối đa hiệu quả của giải pháp đã đưa ra .
II.2.4.Các nguyên nhân và yếu tố tác động
-Điều kiện cơ sở vật chất còn khó khăn, thiếu thốn về máy nên học sinh rất ít được làm quen với công nghệ thông tin.
-Trình độ dân trí thấp,học sinh thường xuyên giao tiếp với nhau bằng tiếng mẹ đẻ, trong khi đó giáo viên chúng tôi lại biết rất ít tiếng dân tộc tại chỗ nên rất khó khăn trong việc điều chỉnh để giảng dạy bằng Tiếng Việt.
-Một số phụ huynh còn bỏ mặc việc học hành của con em cho nhà trường.
Bảng số liệu điều tra tháng 9/2014.
LỚP: 1A – TỔNG SỐ : 15 em | ||||||||
Tháng 9/2014 |
Nghe | Nói | Đọc | Viết | ||||
Số lượng | Tỷ lệ | Số lượng | Tỷ lệ | Số lượng | Tỷ lệ | Số lượng | Tỷ lệ | |
8 em | 53% | 7em | 47% | 6 em | 40% | 7em | 47% |
II.3. Giải pháp , biện pháp
Tìm ra được những phương pháp dạy học mới, sáng tạo, dễ hiểu, phù hợp với khả năng tiếp thu của học sinh lớp Một.
-Tăng cường tiếng Việt cho học sinh lớp Một, giúp các em tiếp thu các môn học khác có hiệu quả.
– Thúc đẩy tinh thần tự học và tìm kiếm tri thức, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.
II.3.2.Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp
a.Chú trọng vấn đề chuyên môn và cách đổi mới phương pháp dạy học có hiệu quả.
– Tuân thủ các nguyên tắc dạy và học Tiếng Việt
+ Phát triển lời nói thông qua giao tiếp và thực hành.
Khi dạy giáo viên phải xem xét các đơn vị cần nghiên cứu trong bài dạy, hoạt động chức năng tức là đưa chúng vào đơn vị lớn hơn như là âm, vần trong tiếng, trong từ. Từ hoạt động trong âm nào? Câu ở trong đoạn, trong bài ra sao? Việc lựa chọn những sắp xếp nội dung dạy học phải lấy hoạt động giao tiếp làm mục đích tức là hướng vào việc hình thành các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết cho học sinh. phải sử dụng giao tiếp như là một phương tiện chủ đạo trong dạy học.
– việc luyện kỹ năng nghe cho trẻ là hết sức quan trọng.Nghe để phân biệt âm thanh trong ngôn ngữ, đặc biệt là những âm, vần, tiếng, từ đọc gần giống nhau. Khi nghe phát âm, âm thanh ngôn ngữ truyền đến tai học sinh tạo ra những rung động ở bán cầu đại não khiến học sinh nhận biết và phân biệt được các âm thanh ngôn ngữ khác nhau. Hoạt động đó được gọi là sự tri giác âm thanh ngôn ngữ. Các em có thể phát âm lại khi các em đã nghe được một cách chính xác, rõ ràng.
Dạy cho học sinh cả bốn kĩ năng nghe, nói, đọc,viết là mục tiêu của môn Tiếng Việt.Trong sách giáo khoa của chương trình Tiểu học mới, kỹ năng nghe xuất hiện dưới dạng yêu cầu nghe và kể lại nội dung một đoạn truyện hay một câu truyện nào đó trong giờ kể chuyện.Kỹ năng nghe là yêu cầu quan trọng hàng đầu bởi nghe có một vai trò quan trọng. Nếu không nghe tốt, học sinh không thể nhận diện được âm, tiếng, từ, câu để phát âm lại. Học sinh phải nghe và hiểu tốt mới tiếp thu bài học và có thể giao tiếp được. Để rèn luyện kỹ năng này, cần phải có một số bài tập bổ trợ, đặc biệt là những lớp đầu cấp Tiểu học. Giáo viên có thể thông qua những trò chơi vận động, khởi động đầu giờ, giữa giờ, trò chơi học tập…để rèn kỹ năng nghe, xử lí thông tin nhanh và phản xạ ngôn ngữ cho học sinh. Nội dung các bài tập có thể là:
– Nghe, phân biệt các từ có âm,vần giống nhau: be,bè, bé, bẻ, bẽ, bẹ…
– Nghe và nhận diện hai âm, vần gần nhau: cái kẻng /các xẻng…
– Nghe và nhận biết các vần có trong tiếng, từ….và đọc lại.
– Nghe và ghép đúng các mảnh thẻ từ được cắt rời thành tiếng, từ…
Muốn học sinh nghe và nhận biết chính xác các âm thanh ngôn ngữ đòi hỏi sự phát âm mẫu của giáo viên phải chuẩn xác, tròn vành, rõ tiếng, học sinh được thực hành luyện tập nghe nhiều và thường xuyên, không những trong môn tiếng Việt mà ở các môn học khác.Khi giảng, lời nói của giáo viên phải chậm rải rõ ràng, dễ hiểu, nên sử dụng nhiều câu đơn, nhiều thành phần để học sinh dễ nghe, dễ hiểu.
Nói là một hoạt động của con người, là sự thể hiện tư duy dựa vào phương tiện ngôn ngữ. Muốn nói tốt phải nhờ sự vận động của các bộ phận,cơ quan phát âm như: Phổi,các dây thanh, lưỡi, răng, môi, ngạc cứng, ngạc mềm.Trước khi hướng dẫn học sinh phát âm, giáo viên cần phát âm mẫu nhiều lần, thật chậm để học sinh quan sát khuôn miệng cũng như cách cử động của môi, lưỡi, hàm của giáo viên. Giáo viên nên hướng dẫn học sinh vận động các bộ phận cơ quan phát âm phát âm như: độ uốn của lưỡi, độ mở của miệng, hình dạng của môi, độ mạnh của hơi…trước khi tập phát âm một âm một vần nào đó.
Đọc là một quá trình mắt tiếp nhận thông tin và não vận hành để tìm hiểu ý nghĩa của thông tin. Người đọc nhìn và hiểu xem cái gì đang được viết lên truyền đạt các ý tưởng, trải nghiệm, phản ứng khác nhau với từng người. Các thông tin được viết lên có những vai trò nhất định trong cuộc sống. Học sinh chỉ hiểu được bài đọc khi hiểu nghĩa tất cả các từ trong bài. Mục tiêu của hoạt động này là làm cho học sinh muốn đọc bài, khơi gợi sự hứng thú của học sinh với bài đọc, giúp học sinh hiểu bài dễ hơn do có những liên hệ cụ thể đến những gì học sinh biết.
Kỹ năng khi dạy viết chữ cùng một lúc nhiều bộ phận đều hoạt động. Tư thế ngồi, cột sống, phổi, lưng, cách cần bút, ngón tay, cổ tay. Hình dáng chữ có liên quan đến mặt, mồm, ánh sáng, đầu hơi cúi…Nếu không đúng tư thế sẽ bị các bệnh cong vẹo cột sống, gù lưng, cận thị, vì thế cần biết phối hợp đồng bộ, tôi đã vận dụng vào bài dạy của tiết dạy đầu tiên như sau:
Một số nét cơ bản vận dụng viết và đọc chữ cái :
*Nhóm 1
Nét sổ thẳng : │ Viết dấu chấm than
Nét gạch ngang : ─ Lời nói nhân vật
Nét xiên phải : / Dùng trong toán học dấu lớn dấu bé…
Nét xiên trái : \
*Nhóm 2



Nét móc hai đầu: Dùng viết chữ h
*Nhóm 3:
Nét cong phải: ( Dùng viết chữ c, ngoặc đơn
Nét cong trái ) Dùng viết chữ x..
Nét cong kín : O Dùng viết chữ o , ô , ơ ,…

Nét khuyết trên : Dùng viết chữ h , k ,l ,b

Nét khuyết lùn : e Dùng viết chữ e , ê ….
Nét thắt : a Dùng viết chữ k , r , s….
Nhờ nắm được các nét cơ bản trên nó sẽ giúp học sinh nhận biết nhanh, viết đúng các âm, dấu một cách vững vàng . Khi học sinh nắm vững các nét cơ bản tôi tiếp tục tiến hành dạy từng âm. Phần này là phần cực kì quan trọng yêu cầu các em cần phải nắm vững đâu là nguyên âm và đâu là phụ âm để tạo thành tiếng. Khi học âm nào giáo viên cần phải nhắc lại gợi ý thật kĩ càng những nét cơ bản nào cấu thành âm đó để học sinh nhớ và khắc sâu kiến thức cũ và mới.
Vd : âm h và âm d
+ Âm h gồm 2 nét : 1 nét sổ thẳng và 1 nét móc 2 đầu nằm ở bên phải , đọc là “hờ” viết là “h”
+ Âm d : gồm 2 nét : 1 nét sổ thẳng và 1 nét cong hở nằm ở bên trái , đọc là “dờ” viết là “d”
Vd: Bài 11-Ôn tập(trang24)
e | ê | o | ơ | ơ | |
b | be | bê | bo | bô | bơ |
v | ve | vê | vo | vơ | vơ |
l | le | lê | lo | vô | vơ |
h | he | hê | ho | hơ | hơ |
c | co | cô | cơ |
/ | ? | . | |||
bê | bề | bề | bể | bễ | bệ |
vo | ……………. | ………….. | ………….. | …………… | …………… |
Gọi HS tiếp tục ghép con chữ b với các con chữ còn lại ở dòng ngang và đọc các tiếng vừa ghép được. Cứ tiếp tục ghép hết bảng và ghi nhớ con chữ c không ghép được với con chữ e, ê.
Các tiếng vừa ghép được các em nhận thấy con chữ ở cột dọc luôn đứng ở vị trí nào? Con chữ ở dòng ngang đứng ở vị trí nào?
– Tiếng bê ở cột dọc ghép với dấu huyền ta được tiếng gì?…( tương tự các tiếng khác ghép dấu sắc, dấu hỏi, dấu ngã, dấu nặng… để được các tiếng có nghĩa
Khi học sinh đã nắm vững và đọc thành thạo các âm đơn . Để học sinh hiểu và khắc sâu các âm ghép tôi đã hướng dẫn để học sinh tự rút ra điểm giống và khác nhau giữa các âm đó , lập được 1 nhóm có âm h đứng sau .
Vd :
– tr, ch ,ng, ngh , gh , nh, ph ,th ,kh ( ch, ngh , gh , nh, ph , th, kh)
Ở những tiết ôn luyện tôi đã kiểm tra sự nhận biết của các em bằng nhiều hình thức khác nhau. Trong khi kiểm tra bài cũ tôi cho đọc tự chọn một câu trong bài, khi thì dùng bảng con viết 2, 3 tiếng .Cho đọc một đoạn trong truyện tranh hoặc dùng phiếu học tập. Qua đó tôi đã củng cố được kiến thức về từ ngữ , câu văn cho học sinh một cách sâu rộng mà lại có cảm giác thoải mái làm cho học sinh bớt đi sự nhàm chán .Ví dụ của phiếu học tập.
Ví dụ 1: Ảnh cưới
Bé giơ ảnh cưới
Thấy mẹ ôm hoa
Cứ hỏi mãi bà
Sao không có bé ?
Bà cười nhỏ nhẹ
Cháu ngoan của bà
Lúc ấy đang bận
Tìm kim cho bà…
Ví dụ 2 Tiếng chim vách núi nhỏ dần
Rì rầm tiếng suối khi gần khi xa.
Ngoài thềm rơi cái lá đa
Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng.
Ví dụ 3:
Nghé ơi, nghé ơi
Việc nặng phần mẹ
Việc nhẹ phần con
Kéo nỉ kéo non
Kéo đến quanh tròn
Mẹ con ta nghỉ…
+ Thường ngày phát triển tư duy ngôn ngữ cho học sinh:
Giáo viên phải tạo điều kiện tối đa cho học sinh rèn luyện các thao tác và phẩm chất tư duy trong giờ dạy học. Giúp học sinh nắm được nội dung các vấn đề cần nói và viết (định hướng giao tiếp, gợi ý cho học sinh quan sát tranh…) và biết thể hiện nội dung tranh này bằng các phương tiện ngôn ngữ.
*Ví dụ: Để dạy vần ui, oi,oan, an… Tôi đã vận dụng một số tranh ảnh cho học sinh trực tiếp quan sát, nhận xét sau đó dùng một số câu hỏi để rút ra tiếng có vần theo nội dung của từng bức tranh.Từ đó các em ghi nhớ vần được lâu.
-Bức tranh chụp cảnh gì?( núi đá)
– Phần nhô cao nhất của núi được gọi là gì?
( Đỉnh núi).
– Khi học sinh nói được một số từ núi đá,đỉnh núi tôi để học sinh phát hiện và tự rút ra được vần ui, có ở tiếng núi trong từ núi đá và từ đỉnh núi.
-Tương tự rút ra vần oi,oan,an có trong từ con voi, giàn khoan, nhà sàn.
+ Chú ý đến trình độ tiếng mẹ đẻ (bản ngữ) của học sinh
Trước khi lên lớp Một, học sinh đã có một vốn Tiếng việt nhất định và song song với quá trình học Tiếng việt trong nhà trường là quá trình tích luỹ, học hỏi Tiếng việt thông qua môi trường gia đình, xã hội từ đó các em đã có một vốn từ và quy tắc ngữ pháp nhất định. Cho nên giáo viên cần điều tra, nắm vững vốn Tiếng việt của học sinh theo từng vùng, từng lớp khác nhau để xác định nội dung, kế hoạch và phương pháp dạy học.
-Nắm rõ các phương pháp dạy học Tiếng Việt như:
+ Phương pháp phân tích ngôn ngữ: Giáo viên cần nắm rõ và xem xét các mặt của ngôn ngữ, từ đó phân tích cho học sinh cách thức nắm bắt từ ngữ.
+ Phương pháp luyện tập làm theo theo mẫu: Giáo viên mô phỏng mẫu, tạo tiền đề cho học sinh áp dụng và luyện tập theo, hình thành cho học sinh thói quen đánh vần và đọc hiệu quả.
+ Phương pháp giao tiếp ngôn ngữ qua hành động: Tạo cho học sinh có nhu cầu giao tiếp, tham gia giao tiếp cùng giáo viên và bạn bè, học sinh sẽ có nhiều hơn nhu cầu sử dụng ngôn ngữ qua hành động.
+ Phương pháp rèn luyện song song cả nói và viết…
b. Áp dụng khoa học công nghệ vào quá trình giảng dạy.
Để gây thay đổi không khí học tập cho các em, trong một số buổi học Tiếng Việt,dự giờ tôi có soạn những bài giảng bằng giáo án trình chiếu để nâng cao chất lượng giảng dạy, giúp các em cảm thấy vui vẻ, có thêm nhiều kiến thức mới, hình ảnh phong phú giúp các em nhớ mặt chữ tốt hơn.
c.Nâng cao tính sáng tạo trong quá trình truyền đạt và tiếp thu kiến thức.
-Tạo không khí tiết học sôi nổi, nhẹ nhàng, hấp dẫn.
Các em là học sinh lớp Một nên nhiều khi còn rụt rè, lo lắng. Nhiều em khi thầy cô gọi đứng dậy trả lời chỉ đứng và im lặng hoặc là không hiểu được câu hỏi hoặc là không tự tin với những câu trả lời bằng tiếng phổ thông của mình do vốn tiếng Việt của các em còn hạn chế. Tiết học lại thường khô khan và thường diễn ra theo hướng một chiều. Vì vậy, muốn tiết dạy đạt hiệu quả cần tạo ra một không khí thật nhẹ nhàng, hấp dẫn. Nắm được tâm lý của học sinh, là giáo viên lớp1A ở trường tiểu học Nguyễn Du, tôi đã thử nghiệm một số phương pháp phù hợp vừa chú trọng đến những yếu tố vừa truyền đạt kiến thức của bài học vừa tăng cường Tiếng Việt bằng những trò chơi ở tất cả các môn học (chủ yếu là các trò chơi về ngôn ngữ, trò chơi sử dụng ngôn ngữ) như:
+ Kể chuyện đóng vai
Phương pháp này gây được hứng thú không nhỏ trong học tập cho học sinh (học mà chơi, chơi mà học). Bên cạnh đó, nó còn giúp các em rèn tính tự tin, tính thần đoàn kết, đồng thời góp phần tăng cường Tiếng Việt cho học sinh.
+ Hoạt động nhóm
Hoạt động nhóm là một trong những phương pháp quan trọng để phát triển năng lực của các em. Hoạt động nhóm hiệu quả sẽ mang lại cho các em những kĩ năng bổ ích trong quá trình hợp tác với bạn bè.
Trong học Tiếng Việt cũng như trong quá trình các em giao tiếp với nhau sẽ thúc đẩy tư duy học hỏi và sử dụng Tiếng Việt một cách thông thạo hơn.
Những kết quả đạt được từ phương pháp thảo luận nhóm mang lại hiệu quả tôi đã khuyến khích đội ngũ giáo viên của khối đưa phương pháp này vào giảng dạy nhằm làm cho tất cả học sinh được hoạt động, tạo không khí lớp học sôi động, hấp dẫn, các em tiếp thu bài cũng dễ dàng hơn, đặc biệt tạo điều kiện để các em bổ sung vốn Tiếng Việt một cách tốt nhất.
+ Tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp
Hoạt động ngoài giờ lên lớp là một sân chơi lành mạnh giúp các em bổ sung kiến thức sau giờ học đồng thời trau dồi kĩ năng giao tiếp, sử dụng Tiếng Việt của mình.Học sinh lớp tôi tham gia đầy đủ mỗi khi có tiết hoạt động ngoài giờ lên lớp .
Tôi đã cho các em vừa chơi vừa học bằng trò chơi thử tài đoán chữ.
*Ví dụ: Thử tài suy luận đoán chữ
Câu 1: Nét tròn em đọc chữ o
Đội thêm cái mũ cho ta chữ gì? ( Đáp án chữ ô)
Câu 2: Không dấu gọi cả hè về
Thêm vào dấu ngã bức tranh tuyệt vời.
( Đáp án: ve, vẽ)
Ví dụ: Rèn luyện phản ứng nhanh nhẹn:
Giáo viên chuẩn bị một số câu hỏi , cho học sinh đoán và ghi đúng tiếng, từ giáo viên yêu cầu vào bảng con:
-Câu 1: Tìm từ có vần uê và có thanh nặng. Nghĩa từ này là loài hoa màu trắng, thơm , thường được cắm bình đặt ở bàn thờ. (Đáp án hoa huệ)
Câu 1: Từ có 2 tiếng : Từ có vần uân và không có dấu thanh. Nghĩa của từ là mùa đầu năm: (Đáp án: Mùa xuân)
Câu 2: Từ có 2 tiếng : tiếng thứ nhất có 2 chữ cái, có âm ê thanh hỏi. tiếng thứ 2 có 5 chữ cái có vần uyên và thanh nặng. Nghĩa của từ là dùng cử chỉ, hành động làm cho người khác nghe một câu chuyện. ( Đáp án: Kể chuyện)
Khi tham gia trò chơi, các em sẽ đón nhận kiến thức một cách hồ hởi, nhớ bài lâu hơn và yêu quý, thích học Tiếng Việt hơn.
Các buổi sinh hoạt Sao Nhi Đồng cũng góp phần không nhỏ trong việc nâng cao chất lượng tiếp thu Tiếng Việt của các em. Nhà trường đã tổ chức đưa các trò chơi dân gian vào chương trình sinh hoạt Đội và sao Nhi đồng. Tổng phụ trách đội cùng với giáo viên chủ nhiệm các lớp đã chọn lựa nhiều trò chơi liên quan đến việc hình thành và phát triển ngôn ngữ tiếng Việt cho học sinh.
Trong tất cả các trò chơi đều bắt buộc học sinh sử dụng ngôn ngữ tiếng phổ thông.
Đặc biệt nhà trường quan tâm chặt chẽ đến học sinh nên thường đọc báo Thiếu niên Nhi đồng ở thư viện và đầu giờ 15 phút nhằm tăng cường Tiếng Việt cho các em một cách hiệu quả.
Với nhiều hình thức sinh hoạt đa dạng, phong phú, các em đã có một sân chơi bổ ích, được tham gia rất nhiều trò chơi hấp dẫn nên đã lôi cuốn được các em, giúp các em ham muốn được đến trường và tạo điều kiện để bổ sung thêm vốn Tiếng Việt cho mình.
d.Tạo không khí thi đua và niềm đam mê học tập mônTiếng Việt cho các em:
Để học tốt môn tiếng việt bên cạnh sự nổ lực phấn đấu của các em học sinh, sự quan tâm động viên kịp thời của các bậc phụ huynh, không thể thiếu được sự dìu dắt bồi dưỡng và những cống hiến âm thầm không mệt mỏi của các thầy giáo , cô giáo.
-Khơi dậy được tiềm năng và trí tuệ sẵn có trong mỗi học sinh. Tạo cho các em niềm tin, yêu thích và từ đó say mê môn Tiếng Việt.
– Truyền thụ kiến thức cơ bản, chính xác, kiến thức tinh giản, dẫn dắt để học sinh dễ nắm bắt, dễ hiểu, lôi cuốn học sinh vào tìm tòi sáng tạo, luôn để học sinh hứng thú với việc đọc bài,viết bài, tìm tiếng ngoài bài, đặt câu…
e. Phương pháp luyện viết tiếng Việt:(Tập viết, Chính tả …)
Ngoài biện pháp rèn nghe, nói, đọc thì phương pháp luyện chữ viết cũng rất quan trọng, để cho các em có kỹ năng nghe,nói, đọc,viết thành thạo khi học xong chương trình tiếng Việt lớp 1. Vì vậy phương pháp dạy viết tiếng Việt tôi rất chú trọng và tuân theo các nguyên tắc sau:
* Những nguyên tắc cần chú ý khi dạy chính tả, tập viết(có 2 nguyên tắc)
Nguyên tắc1: Đảm bảo sự phối hợp thống nhất các bộ phận trong cơ thể khi tham gia viết chữ.
Khi viết chữ cùng một lúc nhiều bộ phận đều hoạt động. Tư thế ngồi, cột sống, phổi, lưng, cách cần bút, ngón tay, cổ tay. Hình dáng chữ có liên quan đến mặt, mồm, ánh sáng, đầu hơi cúi…Nếu không đúng tư thế sẽ bị các bệnh cong vẹo cốt sống, gù lưng, cận thị…Vì vậy việc phối hợp đồng bộ của cơ thể là rất quan trọng.
Nguyên tắc 2: Dạy tập viết – chính tả là dạy hình thành những kỹ năng:
Kỹ năng chính xác,kỹ năng kiên trì, kỹ năng lặp đi lặp lại.
* Để hình thành kỹ năng viết chữ cho học sinh phải trải qua 3 giai đoạn:
– Giai đoạn 1: Hình thành và xây dựng biểu tượng chữ viết giúp các em nắm được hình dáng, kích thước, quy trình viết từng chữ cái
– Giai đoạn 2: Hướng dẫn các em luyện viết từ các con chữ đã học để tạo thành từ, câu, đoạn, bài…
Giai đoạn 3: Trong khi học sinh thực hiện viết giáo viên theo dõi, uốn nắn cho những em còn lúng túng, kết kợp nhận xét tuyên dương những em hoàn thành tốt bài viết.
Không những luyện cho học sinh 4 kỹ năng nghe, nói, đọc , viết ở môn Tiếng Việt mà tôi và giáo viên bộ môn còn rèn các kỹ năng này trong tất cả các môn học như: Giải bài toán có lời văn, môn đạo đức cách xử lý các tình huống, đóng vai,…môn tự nhiên và xã hội, thể hiện lời nói qua quan sát nhận xét…để học sinh có niềm đam mê Tiếng Việt và yêu quý tiếng Việt ngay từ khi bước vào lớp 1.
g. Phối hợp chặt chẽ giữa giáo viên và phụ huynh
+ Trước hết, mỗi giáo viên cần quan tâm, gần gũi hơn với học sinh
Bản thân tôi là một giáo viên đứng lớp, tôi hiểu được tầm quan trọng của việc nắm bắt tâm tư tình cảm của học sinh để nâng cao chất lượng giảng dạy. Khi một người giáo viên quan tâm, gần gũi với những học trò của mình, bản thân các em sẽ cảm thấy yêu quý giáo viên hơn, có trách nhiệm hơn trong học tập, cảm thấy việc học không còn là sự ép buộc. Ngôn ngữ từ giáo viên phát ra cũng từ đó mà đi vào tư duy các em, được các em đón nhận và tiếp thu hiệu quả.
Một số giáo viên của trường đã có được vốn tiếng dân tộc cơ bản cần thiết và việc giao tiếp với học sinh trở nên gần gũi hơn, tạo điều kiện để giải thích cho các em hiểu được những tiếng, từ, câu khó, hướng dẫn cho các em phát âm tiếng Việt một cách chính xác.
Nhà trường đã động viên đội ngũ giáo viên trong quá quá trình tự học, Hiện nay chúng tôi đã tự học tiếng dân tộc và nắm được những từ ngữ cơ bản phục phụ cho công tác giảng dạy.
+ Tạo thói quen sử dụng tiếng phổ thông ở gia đình và cộng đồng
Phối hợp chặt chẽ với gia đình các em để phụ huynh hiểu rõ tầm quan trọng của việc sử dụng ngôn ngữ phổ thông tại gia đình. Gia đình là trường học đầu tiên và vô cùng quan trọng đối với mỗi đứa trẻ đặc biệt là việc hình thành ngôn ngữ cho trẻ. Các em sống với gia đình, ít có điều kiện gặp gỡ, giao lưu với bạn bè nên vốn tiếng Việt của các em rất hạn chế trong khi những người trong gia đình ít sử dụng tiếng phổ thông.
Trong nhà trường, bản thân tôi đã xây dựng chuyên đề về việc tăng cường tiếng Việt cho học sinh lớp Một được sự hỗ trợ của cán bộ quản lý, các đồng chí trong tổ cùng góp ý xây dựng tìm ra những giải pháp nhằm nâng cao vốn tiếng Việt cho học sinh. Trong các cuộc họp sinh hoạt chuyên môn, chuyên đề… bản thân tôi góp ý cho giáo viên phải thường xuyên gặp gia đình học sinh để tuyên truyền phối hợp với phụ huynh quan tâm đến việc sử dụng tiếng phổ thông ở nhà thường xuyên cho các em.
II.4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu
Bản thân tôi cùng nhiều giáo viên đã thấy được hiệu quả của việc tăng cường Tiếng Việt trong quá trình nâng cao chất lượng giáo dục nên đã hưởng ứng nhiệt tình và cùng nhau tìm thêm những giải pháp mới khác có hiệu quả để áp dụng vào giảng dạy trong năm nay. Một số gia đình học sinh cũng đã tiếp thu sự tuyên truyền của chúng tôi nên cũng đã có ý thức hay sử dụng Tiếng Việt trong giao tiếp hàng ngày với con em nên có nhiều em đã sử dụng vốn Tiếng Việt tương đối thành thạo; năm nay số em học sinh lớp một cũng đã biết giao tiếp ngay từ đầu năm tăng lên nhiều hơn trước.
Bảng số liệu điều tra gần cuối học kỳ 2/2015.
LỚP: 1A – TỔNG SỐ : 15 EM | ||||||||
Tháng 3/2015 |
Nghe | Nói | Đọc | Viết | ||||
Số lượng | Tỷ lệ | Số lượng | Tỷ lệ | Số lượng | Tỷ lệ | Số lượng | Tỷ lệ | |
15em | 100% | 14em | 93% | 13em | 87% | 15em | 100% |
Nhìn vào bảng số liệu điều tra gần cuối học kì II của lớp 1A cho thấy so với đầu năm số em nghe tăng rất tốt chiếm tỉ lệ 100%, số em nói tăng thêm 7 em như vậy tổng là 14 em chiếm tỉ lệ 93%, số em đọc được tăng 7 em, tổng là 13 em chiếm tỉ lệ 87%,(Lớp còn 2 em đọc đánh vần) số em viết được tăng 8 em, tổng là 15 em chiếm tỉ lệ 100 %.
III . PhẦn KẾT luẬn
III.1. Kết luận
Trong quá trình giảng dạy, việc tăng cường Tiếng Việt cho học sinh lớp một là một yếu tố hết sức quan trọng. Tuy nhiên, việc tăng cường Tiếng Việt không được phép nóng vội mà phải kiên trì để tìm và kết hợp những phương pháp, giải pháp phù hợp với điều kiện của học sinh thì mới đem lại hiệu quả như mong muốn. Qua đó tôi đã sử dụng nhiều phương pháp đa dạng, thông qua các giải pháp và bắt đầu bằng việc “ Nghe,nói,quan sát, làm theo””.các phương pháp tôi đã áp dụng trong đề tài này đã đem lại hiệu quả :
+ Phương pháp hoạt động nhóm.
+ Phương pháp kể chuyện, đóng vai, trò chơi.
+ Tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp.
+ Phương pháp phân tích ngôn ngữ.
+ Phương pháp rèn luyện song song cả nói và viết.
Để các em có được điều kiện học tập và nâng cao vốn Tiếng Việt ở trường, ở gia đình và cộng đồng thì trước hết Ban giám hiệu, các tổ chức đoàn thể, tổ khối phải có kế hoạch hoạt động cụ thể; đội ngũ giáo viên phải thực sự nhiệt tình, tâm huyết, có tinh thần tự học, thiết kế những tiết học sôi nổi, hấp dẫn, hàng tháng tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp, kết hợp chặt chẽ với phụ huynh nhằm giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho các em học ở nhà và thường xuyên sử dụng tiếng phổ thông trong việc giao tiếp ở nhà và ở cộng đồng.
Gia đình và các tổ chức đoàn thể ở thôn (buôn) luôn là môi trường thuận lợi trong việc làm quen và bồi dưỡng vốn Tiếng Việt cho trẻ trong thời gian ở nhà và sinh hoạt ở cộng đồng. Đặc biệt trong dịp hè, tổ chức Đoàn nên thường xuyên tạo cho các em những sân chơi giúp cho các em có được những ngày hè vui tươi, bổ ích và tạo điều kiện nâng cao vốn Tiếng Việt.
III.2. Bài học kinh nghiệm
Trong quá trình nghiên cứu bản thân tôi rút ra được một bài học bổ ích đó là nên thực hiện các giải pháp một cách từ từ, không nóng vội được.
Kiên nhẫn mới mang lại hiệu quả cao nhất trong việc giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt.
Hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học sinh phải nhịp nhàng, nhạy bén,linh hoạt, nắm vững mục tiêu của bài học mà giáo viên hướng tới. Đặc biệt luôn luôn phải có đồ dùng, tranh ảnh, vật thật để thu hút sự chú ý của học sinh. Bên cạnh đó cũng nên thiết kế nhiều tiết dạy trình chiếu.Thường xuyên nghiên cứu để tìm ra những cách dạy hay, đổi mới phương pháp ,áp dụng thông tư 30 một cách đúng đắn để làm thay đổi sự nhàm chán của học sinh. Cần tạo nên mối liên hệ linh hoạt vui tươi giữa người dạy và người học thông qua các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết ,học sinh trực tiếp được quan sát, làm theo dưới sự hướng dẫn của giáo viên, từ đó các em vận dụng những những kiến thức đã học vào thực tế trong cuộc sống hằng ngày tùy theo khả năng nhận thức, sáng tạo của mình.
Giáo viên cần rèn luyện cho học sinh nhiều phương pháp học tập có tính chủ động, thông qua các tiết học thảo luận nhóm, các trò chơi, các bài ôn, phiếu học tập, hoạt động ngoài giờ, những tiết chào cờ, sinh hoạt đội, câu lạc bộ,đồng thời phối két hợp với cha mẹ học sinh có biện pháp hỗ trợ khi các em ôn bài ở nhà … Từ đó học sinh yêu thích học Tiếng Việt hơn.
Giáo viên nên phải giành nhiều thời gian, lập kế hoạch, nắm được đặc điểm tâm lý của từng em, tạo môi trường thân thiện, gần gũi nhẹ nhàng,
Sự tiếp thu và lắng nghe ý kiến từ các giáo viên đứng lớp khác cũng như chính học trò của mình cũng là một điều hết sức quan trọng. Bản thân tôi đã thấy rõ điều đó nên đã có cái nhìn khách quan hơn trong những giải pháp mình đưa ra và tiến hành phối hợp thực hiện đạt hiệu quả theo ý muốn.
Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ trong công tác dạy học mà bản thân tôi đúc kết sau khi nghiên cứu và áp dụng thực hiện vào công tác giảng dạy tại trường và đã đem lại được một số kết quả khả quan trong việc nâng cao chất lượng giáo dục thông qua việc tăng cường Tiếng Việt cho học sinh lớp 1A. Những kinh nghiệm này vừa có sự sáng tạo vừa tuân thủ nghiêm túc .Tôi mong muốn được chia sẻ và góp ý từ đồng nghiệp. Tôi xin chân thành cảm ơn các tổ chức đoàn thể, các tổ khối trong nhà trường đã phối hợp và giúp đỡ tôi có được kết quả. Đặc biệt xin cảm ơn Ban Giám Hiệu nhà trường đã tạo điều kiện quan tâm hướng dẫn chúng tôi tìm ra những giải pháp tích cực để tăng cường Tiếng Việt cho học sinh lớp Một và đã đạt kết quả khả quan. Tuy nhiên đây chỉ là những kinh nghiệm nhỏ của bản thân tôi.Trong quá trình viết đề tài chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Kính mong Hội đồng khoa học các cấp góp ý cho đề tài này được hoàn hảo hơn.
Cuôr Đăng, ngày 15 tháng1 năm2016
Người thực hiện
Mai Thị Tuyết
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Lê Bá Miên – Bài giảng Đại cương ngôn ngữ, từ vựng học – Trường ĐHSPHN2.
2. Lê Phương Nga – Phương pháp dạy học Tiếng việt ở tiểu học – NXBĐHQGHN 1999
3. Phạm Thị Hoà – Bài giảng phương pháp dạy học Tiếng việt – Trường ĐHSPHN2.
4. Bộ sách Tiếng việt tiểu học nâng cao – NXB giáo dục.
5. Tài liệu tập huấn giáo viên ( viết chữ đẹp) tháng 10 năm 2005 ( Hà Nội)
6. Tài liệu tập huấn “ Tăng cường Tiếng việt cho học sinh dân tộc thiểu số” năm 2013. ( Sở GD Đăk Lăk).
7. Các nét cơ bản ( Vở tập viết lớp 1, tập 1) năm 2014 của Bộ giáo dục đào tạo.
Cùng một số tài liệu tham khảo khác…